Diễn biến Trận chiến sân bay Henderson

Triển khai binh lực

Phòng tuyến Lunga bao quanh sân bay Henderson vào tháng 9 năm 1942 trước khi được tăng viện bởi Trung đoàn Bộ binh 164. Sông Lunga chảy dọc theo trung tâm bản đồ. Sông Matanikau thì nằm ở phía trái bản đồ.

Vào ngày 12 tháng 10, một đại đội công binh Nhật Bản bắt đầu mở một con đường mòn, được gọi là "Đường mòn Maruyama", bắt đầu từ Matanikau hướng đến phần phía Nam của ngoại vi Lunga. Con đường dài 24 km (15 dặm) này trải qua một trong những địa hình phức tạp nhất trên đảo Guadalcanal: nhiều sông suối, khe sâu, đầm lầy đầy bùn, các ngọn đồi dốc đứng và rừng rậm. Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10, Sư đoàn 2 bắt đầu hành quân dọc theo con đường mòn Maruyama, dẫn đầu là đơn vị của Nasu, theo sau là đơn vị của Kawaguchi và Maruyama. Mỗi người lính được lệnh mang theo một quả đạn pháo cộng với quân dụng và một khẩu súng trường.[23][g]

Rạng sáng ngày 20 tháng 10, Maruyama đã đến sông Lunga. Tin rằng đơn vị của mình đang ở khoảng 4 dặm (6 km) phía nam sân bay, ông ra lệnh cho hai bên sườn phải và trái đơn vị mình tiến song song về hướng bắc Lunga đến phòng tuyến Mỹ và định thời gian tấn công là 18 giờ ngày 22 tháng 10. Tuy nhiên Maruyama đã mắc sai lầm. Thực ra ông và đơn vị của mình thực tế lại đang ở vị trí 8 dặm (13 km) phía nam sân bay. Đến tối ngày 21 tháng 10, Maruyama nhận thấy rõ ràng vị trí hiện tại không thể mở cuộc tấn công vào ngày hôm sau, do đó ông ra lệnh dời ngày tấn công đến ngày 23 tháng 10 và ra lệnh cho quân lính cắt giảm nửa khẩu phần để tiết kiệm lương thực. Sập tối ngày 22 tháng 10, phần lớn lực lượng của Sư đoàn 2 vẫn còn đang len lỏi trên đường mòn Murayama nhưng Maruyama đã không ra lệnh hoãn tấn công nữa.[24]

Trong thời gian đó, Sumiyoshi đang chuẩn bị cuộc tấn công từ phía tây. Ngày 18 tháng 10, ông ra lệnh pháo kích sân bay Henderson bằng 15 khẩu lựu pháo 150 mm. Phần còn lại của Trung đoàn 4 do Đại tá Nomasu Nakaguma chỉ huy bắt đầu tập trung lại gần Point Cruz (trên bờ biển gần phía tây Matanikau). Ngày 19 tháng 10, đại tá Akinosuka Oka dẫn 1.200 quân thuộc Trung đoàn 124 vượt sông Matanikau và bắt đầu di chuyển từ bờ sông phía đông đến vùng đất cao phía đông con sông.[25]

Ngày 23 tháng 10, lực lượng của Maruyama vẫn đang di chuyển một cách khó khăn để vượt qua khu rừng và đến được phòng tuyến quân Mỹ. Tướng Kawaguchi đã tự ý chuyển đơn vị cánh phải của mình về hướng đông, tin rằng lực lượng phòng thủ của Mỹ ở đây yếu hơn các vị trí khác. Tướng Maruyama biết được tin này thông qua một sĩ quan tham mưu đã ra lệnh cho Kawaguchi giữ nguyên kế hoạch tấn công ban đầu. Kawaguchi từ chối và hậu quả là ông phải giao lại quyền chỉ huy cho Đại tá Toshinari Shoji, chỉ huy trưởng Trung đoàn 230. Đêm hôm đó, sau khi nhận ra cả hai lực lượng bên sườn phải và trái của mình vẫn chưa đến được vị trí xuất phát, tướng Hyakutake đã tiếp tục ra lệnh dời cuộc tấn công đến 19 giờ ngày 24 tháng 10. Cho đến lúc này phía Mỹ vẫn hoàn toàn không hay biết gì về lực lượng của Maruyama đang đến gần.[26]

Cũng trong ngày này, Không hạm đội 11 đóng tại Rabaul của Phó đô đốc Jinichi Kusaka đã đưa 16 máy bay ném bom Mitsubishi G4M2 và 28 chiến đấu cơ A6M2 Zero đến tấn công sân bay Henderson. Phía Mỹ đã đưa 24 chiến đấu cơ F4F-4 Wildcat và 4 chiến đấu cơ P-400 Airacobra của CAF lên ngăn chặn. "Một trong những trận không chiến lớn nhất trên vùng trời Guadalcanal" đã kết thúc với kết quả CAF mất một máy bay Wildcat nhưng phi công không bị gì còn phía Nhật mất một số máy bay nhưng tổn thất thực sự thì không biết chính xác.[27]

Cuộc tấn công của đại tá Nakaguma

Tướng Sumiyoshi nhận được tin tức từ bộ tham mưu của tướng Hyakutake về việc thay đổi thời gian tấn công sang ngày 24 tháng 10, nhưng không thể liên lạc được với đơn vị dưới quyền để thông báo sự trì hoãn. Do đó, đêm 23 tháng 10, hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 4 Bộ binh cùng chín xe tăng của Đại đội 1 Xe tăng Độc lập tung ra cuộc tấn công vào các vị trí phòng ngự của Thủy quân Lục chiến Mỹ tại cửa sông Matanikau.[28][h]

Xác xe tăng Nhật tại cửa sông Matanikau sau cuộc tấn công thất bại.

Những chiếc xe tăng của Nakaguma đã tấn công thành từng cặp vượt qua bãi cát cửa sông Matanikau phía sau hàng rào pháo binh. Pháo chống tăng 37mm và hỏa lực pháo đã nhanh chóng tiêu diệt cả chín xe tăng. Cùng thời điểm đó, bốn tiểu đoàn thuộc pháo binh Thủy quân Lục chiến, với 40 lựu pháo, đã bắn hơn 6.000 quả đạn pháo vào khu vực giữa Point Cruz và Matanikau, gây thiệt hại nặng cho những tiểu đoàn của đại tá Nakaguma đang tìm cách tiếp cận phòng tuyến Hoa Kỳ. Cuộc tấn công của Nakaguma kết thúc vào lúc 1 giờ 15 phút ngày 24 tháng 10, lực lượng Mỹ chỉ bị thiệt hại nhẹ và không bị mất bất kỳ khu vực nào.[29][i]

Một phần vì cuộc tấn công của Nakaguma, ngày 24 tháng 10, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến do Thiếu tá Herman H. Hanneken chỉ huy đã được đưa đến Matanikau. Sau khi phát hiện lực lượng của đại tá Oka đang áp sát các vị trí Thủy quân lục chiến tại Matanikau từ phía nam, tiểu đoàn của Hanneken được bố trí trên một đỉnh núi sườn phải đối mặt với phía nam hình thành nên một phần mở rộng liên tục của các sườn nội địa của tuyến phòng thủ Matanikau hình móng ngựa. Tuy nhiên vẫn có một khoảng cách giữa cánh trái của đơn vị Hanneken (phía đông) và phòng tuyến chính.[30]

Cuộc tấn công đầu tiên của tướng Maruyama

Với việc tái bố trí của tiểu đoàn Hanneken, 700 lính thuộc Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến của Trung tá Chesty Puller phải một mình giữ phòng tuyến dài 2.286 m ở mặt nam phòng tuyến Lunga, phía đông sông Lunga. Đêm ngày 24 tháng 10, các lực lượng tuần tra của thủy quân lục chiến đã phát hiện ra quân của Maruyama đang tiến đến gần nhưng đã quá muộn để sắp xếp lại vị trí.[31]

Bản đồ trận đánh, 23-26 tháng 10. Cuộc tấn công của Sumiyoshi và Oka ở phía tây Matanikau (bên trái) còn cuộc tấn công của Maruyama (Sư đoàn 2) vào phòng tuyến Lunga từ phía nam (bên phải)

14 giờ ngày 24 tháng 10, hai đơn vị phải và trái của Maruyama bắt đầu triển khai tấn công. Tuy nhiên, quân Nhật có rất ít pháo và súng cối yểm trợ cho cuộc tấn công vì hầu hết pháo hạng nặng đã phải bỏ lại trên con đường Maruyama. Từ 16 giờ đến 21 giờ, trời mưa lớn đã làm cản trở bước tiến của quân Nhật và gây ra sự hỗn loạn trong hàng ngũ lính Nhật, những người đã hoàn toàn kiệt sức sau chuyến hành quân dài băng qua rừng rậm.[32] Đơn vị cánh phải của đại tá Shoji vô tình di chuyển song song với phòng tuyến quân Mỹ và một tiểu đoàn đã không thể tìm đường đến được phòng tuyến. Vào lúc 22 giờ, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 230 thuộc cánh quân của Shoji thâm nhập được vào phòng tuyến của tiểu đoàn Puller nhưng bị đẩy lùi. Tuy nhiên không biết vì lý do gì mà sĩ quan dưới quyền của Maruyama đã thông báo về cho tướng Hyakutake là lính Nhật do đại tá Shoji chỉ huy đã chiếm được sân bay Henderson. Lúc 0 giờ 50 phút ngày 25 tháng 10, tướng Hyakutake đánh điện về Rabaul, "Trước 23 giờ, đơn vị cánh phải đã chiếm được sân bay."[32][33][34]

Cũng trong thời gian đó, các tiểu đoàn thuộc đơn vị cánh trái của tướng Nasu đã bắt đầu tiếp cận được phòng tuyến Hoa Kỳ. 0 giờ 30 phút ngày 25 tháng 10, Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 3 do Đại úy Jiro Katsumata chỉ huy xông vào tấn công Đại đội A thuộc tiểu đoàn Puller. Cuộc tấn công của đại đội này đã bị chặn lại bởi hàng rào dây kẽm gai bố trí trước phòng tuyến và sau đó đến lúc 1 giờ, hỏa lực súng máy, súng cối và pháo đã giết chết gần hết đại đội của Katsumata.[35]

Ở phía tây, lúc 1 giờ 15 phút, Đại đội 9 thuộc Tiểu đoàn 3 Nhật Bản tấn công vào Đại đội C tiểu đoàn Puller. Chỉ trong vòng 5 phút, một tiểu đội súng máy Thủy quân lục chiến do trung sĩ John Basilone chỉ huy đã tiêu diệt gần hết Đại đội 9.[k] Lúc 1 giờ 25 phút, hỏa lực pháo của Thủy quân lục chiến đã trút xuống những nhóm lính và đường tiến quân của quân Nhật, gây ra thương vong lớn.[36] Nhận ra cuộc tấn công chính của quân Nhật đã bắt đầu, trung tá Puller đã gọi thêm quân chi viện. Lúc 3 giờ 45 phút, Đại đội 3, Trung đoàn Bộ binh 164 của Thiếu tá Robert Hall đã được đưa đến và được tăng cường dần dần vào phòng tuyến của Puller. Mặc dù trời tối và mưa lớn, những người lính Vệ binh Quốc gia đã được kịp thời bố trí vào phòng tuyến của trung tá Puller trước lúc trời sáng.[37]

Ngay trước lúc bình minh, Đại tá Masajiro Furimiya, chỉ huy trưởng Trung đoàn Bộ binh 29, với hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 3 cộng với các sĩ quan trong sở chỉ huy trung đoàn đã vượt qua được trận địa pháo và đến phòng tuyến Puller lúc 3 giờ 30 phút. Hầu hết số quân này bị tiêu diệt trong cuộc tấn công, tuy nhiên có 100 người lính đã vượt qua được phòng tuyến và trụ lại ở một khu vực dài 137 m và sâu 91 m ở trung tâm phòng tuyến Puller. Sau khi mặt trời mọc, Tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn Furimiya mới tham gia vào cuộc tấn công phòng tuyến Puller nhưng cũng bị đẩy lùi. Đến 7 giờ 30 phút, tướng Nasu quyết định cho phần lớn số quân còn lại của mình rút lui về rừng rậm và chuẩn bị cho cuộc tấn công khác vào ban đêm.[38]

Suốt buổi sáng ngày 25 tháng 10, Tiểu đoàn Puller đã tìm và tiêu diệt những nhóm quân Nhật xâm nhập vào phòng tuyến, giết chết tổng cộng 104 lính Nhật. Cuộc tấn công đầu tiên vào phòng tuyến Lunga của tướng Maruyama đã kết thúc với hơn 300 lính Nhật bị giết. Lúc 4 giờ 30 phút sáng, tướng Hyakutake đã hủy bỏ thông báo về việc đã chiếm được sân bay nhưng đến 7 giờ sáng, ông tuyên bố rằng vẫn chưa biết kết quả cuộc tấn công của Maruyama.[39]

Không quân và Hải quân Nhật tấn công

Các chiến đấu cơ F4F Wildcat của Thuỷ quân lục chiến Mỹ cất cánh từ sân bay Henderson tấn công quân Nhật

Hạm đội 8 của Hải quân Nhật Bản đã đưa lực lượng yểm trợ cho cuộc tấn công của lục quân tại Guadalcanal. Sau khi nhận được thông báo của tướng Hyakutake về việc đã chiếm được sân bay lúc 0 giờ 50 phút ngày 24 tháng 10, lực lượng này bắt đầu tham chiến. Tuần dương hạm hạng nhẹ Sendai và ba khu trục hạm đã tuần tra khu vực phía tây Guadalcanal để chặn đánh bất kỳ tàu nào của Đồng Minh nào muốn đến gần hòn đảo. Lực lượng Đột kích Thứ nhất với ba khu trục hạm và Lực lượng Đột kích Thứ hai bao gồm tuần dương hạm hạng nhẹ Yura và năm khu trục hạm đã đến Guadalcanal để tấn công các tàu của Đồng Minh ở bờ biển phía bắc và đông, đồng thời dùng hải pháo yểm trợ cho cuộc tấn công của lực lượng Nhật trên đảo.[40]

Lúc 10 giờ 14 phút, Lực lượng Đột kích Thứ nhất đã đến Lunga Point và đánh đuổi hai tàu quét thủy lôi Hoa Kỳ (vốn là hai khu trục hạm cũ) Zane và Trevor, đang vận chuyển nhiên liệu máy bay đến sân bay Henderson. Các khu trục hạm Nhật sau đó đã phát hiện và đánh chìm chiếc tàu kéo Seminole và tàu tuần tra YP-284 trước khi pháo kích vào các vị trí quân Mỹ quanh Lunga Point. Lúc 10 giờ 53 phút, pháo phòng duyên của Thủy quân lục chiến đã bắn trúng và làm bị thương chiếc khu trục hạm Akatsuki và cả ba khu trục hạm Nhật Bản đã rút lui sau khi bị 4 chiến đấu cơ F4F Wildcat của Không lực Cactus (CAF) phát hiện và tấn công.[41]

Lực lượng Đột kích Thứ hai tiến đến Guadalcanal sau khi băng qua eo biển Indispensable, đã bị 5 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless của CAF tấn công. Yura bị trúng hai quả bom phía sau tàu gần phòng động cơ, khiến nó bị ngập nước và nghiêng về phía đuôi. Khi nhận được báo cáo về cuộc tấn công, Phó Đô đốc Mikawa của Hạm đội 8 ra lệnh hủy bỏ nhiệm vụ và cho Lực lượng Đột kích Thứ hai quay trở lại. Tuy nhiên trên đường rút chạy, Yura nhiều lần trở thành mục tiêu bị không kích và kết quả là thủy thủ đoàn phải rời tàu và chiếc tàu bị đánh chìm vào lúc 21 giờ đêm hôm đó.[42]

Trong khi đó, 82 máy bay ném bom và chiến đấu cơ thuộc Không Hạm đội 11 Nhật Bản và các hàng không mẫu hạm Junyō, Hiyō đã tấn công sân bay Henderson trong 6 đợt suốt buổi sáng. Lực lượng này đã bị đánh chặn bởi các chiến đấu cơ của CAF và hỏa lực phòng không. Kết quả là trong ngày này, phía Nhật mất 11 chiến đấu cơ, 2 máy bay ném bom và 1 máy bay trinh sát với hầu hết phi hành đoàn của các máy bay trên. Phía Mỹ mất 2 chiến đấu cơ nhưng phi công đều còn sống. Những cuộc không kích này chỉ gây thiệt hại nhẹ cho sân bay Henderson và lực lượng phòng thủ Hoa Kỳ. Người Mỹ sau đó đã gọi ngày này là "Dugout Sunday" (Hầm trú ẩn ngày Chủ nhật) vì những cuộc tấn công liên tiếp trên không, trên biển và hỏa lực pháo binh của người Nhật đã khiến quân Mỹ phòng thủ tại Lunga phải đào hố cá nhân và trú trong đó cả ngày.[43][l]

Cuộc tấn công thứ hai của tướng Maruyama

Suốt buổi sáng ngày 25 tháng 10, quân Mỹ đã tái bố trí lại và tăng cường phòng thủ, chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo của quân Nhật có thể sẽ diễn ra ngay trong đêm. Ở phía tây, trung tá Hanneken cùng Trung đoàn 5 đã cho lấp kín khoảng hở giữa hai đơn vị. Dọc theo phía nam phòng tuyến, các đơn vị của trung tá Puller và đại tá Hall cũng được tái bố trí. Đơn vị của Puller trấn giữ vùng phía tây dài 1.280 m còn Trung đoàn 164 trấn giữ vùng phía đông dài 1.006 m. Đơn vị dự phòng, Đại đội 3 thuộc Trung đoàn 2 Thủy quân lục chiến được bố trí ngay sau vị trí của đơn vị Hall và Puller.[44]

Tướng Maruyama đã đưa lực lượng dự phòng, Trung đoàn Bộ binh 16, vào lực lượng cánh trái của tướng Nasu. Từ 20 giờ ngày 25 tháng 10 cho đến sáng sớm ngày 26 tháng 10, trung đoàn 16 và những lực lượng còn lại của tướng Nasu sau cuộc tấn công ngày 24 tháng 10 đã thực hiện nhiều cuộc tấn công trực diện không thành công vào các vị trí được phòng thủ bởi các đơn vị của trung tá Puller và đại tá Hall. Hoả lực súng trường, súng máy, súng cối, pháo binh cùng hỏa lực bắn trực tiếp của các khẩu đội pháo chống tăng 37 mm đã gây ra một sự "tàn sát khủng khiếp" đối với những người lính của Nasu.[45] Đại tá Toshiro Hiroyasu, chỉ huy trưởng Trung đoàn 16 cùng hầu hết các sĩ quan tham mưu của ông, cộng với 4 tiểu đoàn trưởng đều tử trận trong cuộc tấn công. Tướng Nasu bị trúng đạn ở ngực, về đến Bộ tư lệnh là chết. Vài nhóm nhỏ lính Nhật đã vượt qua phòng tuyến Hoa Kỳ, trong đó có 1 nhóm được chỉ huy bởi đại tá Furimiya, nhưng tất cả đều bị săn đuổi và tiêu diệt nhiều ngày sau đó. Lực lượng cánh phải của đại tá Shoji đã không tham gia cuộc tấn công mà giữ nguyên vị trí để yểm trợ cho cánh phải của tướng Nasu trong trường hợpp bị quân Mỹ phản công, tuy nhiên điều này đã không diễn ra.[45][46][47]

Cuộc tấn công của đại tá Oka

Bản đồ cuộc tấn công của đại tá Oka vào ngọn đồi trấn giữ bởi tiểu đoàn của Hanneken

3 giờ sáng ngày 26 tháng 10, đơn vị của đại tá Oka cuối cùng đã đến và bắt đầu tấn công phòng tuyến Hoa Kỳ gần Matanikau. Lính Nhật tấn công dọc dãy núi yên ngựa từ đông sang tây được trấn giữ bởi Tiểu đoàn Hanneken nhưng chủ yếu tập trung vào vị trí của Đại đội F phòng thủ cánh trái quân Mỹ trên ngọn đồi. Một tiểu đội súng máy của đại đội F do Mitchell Paige chỉ huy đã tiêu diệt nhiều lính Nhật tấn công, nhưng hầu hết các xạ thủ súng máy đều bị chết hoặc bị thương dưới hỏa lực quân Nhật. Lúc 5 giờ sáng, Đại đội 3, Trung đoàn Bộ binh 4 của Oka đã vượt qua được sườn dốc của ngọn đồi và đẩy lùi những người còn sống sót của Đại đội F ra khỏi đỉnh đồi.[3][48][49][50]

Trước việc quân Nhật đã chiếm được đỉnh đồi, thiếu tá Odell M. Conoley thuộc tiểu đoàn Hanneken đã nhanh chóng tập hợp 17 người tổ chức phản công, trong đó có một nhân viên thông tin, một người phục vụ, một đầu bếp và một nhạc công. Lực lượng ô hợp này được tăng viện thêm người từ Đại đội G, C và những người còn lành lặn của Đại đội F đã nhanh chóng tiến hành tấn công để cho quân Nhật không có thời gian củng cố các vị trí phòng thủ trên đỉnh đồi. Đến 6 giờ sáng, lực lượng của Conoley đã đẩy lùi được quân Nhật ra khỏi đỉnh đồi và chấm dứt luôn cuộc tấn công của đại tá Oka. Thủy quân lục chiến Mỹ đếm được 98 xác lính Nhật trên đỉnh đồi và hơn 200 xác nữa xung quanh khu vực đó. Tiểu đoàn của Hanneken chết 14 người và bị thương 32 người.[3][48][49][50]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận chiến sân bay Henderson http://www.combinedfleet.com/yura_t.htm http://books.google.com/books?id=8bNBkr3xuKEC&q=Th... http://books.google.com/books?id=L2wlf8tSyMEC&prin... http://books.google.com/books?id=PahbHutdCNkC&prin... http://books.google.com/books?id=SLfti-Dc1AcC&prin... http://books.google.com/books?id=q4L7QjcnzJkC&prin... http://books.google.com/books?id=tgfkPwAACAAJ&dq=L... http://www.historyanimated.com/GuadalcanalPage.htm... http://www.guadalcanal.homestead.com/index.html http://ww2db.com/battle_spec.php?battle_id=9